Saturday, November 30, 2013

Đường trái cây có tốt hơn các đường khác không



 http://ts2.mm.bing.net/th?id=H.4837173616181569&pid=15.1

Theo Tin tức cao niên
 
www.duongdoimuonneo.blogspot.com - Nhà dinh dưỡng Joy Dubost thuộc Viện Dinh dưỡng và Kiêng cữ (Academy of Nutrition and Dietetics) thì đường trong một lát trái cây, một lon nước  soda hay một miếng bánh ngọt cũng đều gồm có hai thành phần fructose và gluose. Cấu trúc và thành phần phân tử của các phân tử đường đều như nhau dù là có nguồn gốc từ đâu.
 
Tì lệ fructoseglucose trong trái cây và đường ăn (table sugar) khôngkhác nhau mấy. Hầu hết các trái cây chứa từ 40 tới 50 phần trăm fructose  (trừ một vài ngoại lệ như 65% trong táo và lê; 20% trong nham lê tức cranberry) còn trong đường ăn (hay sucrose) thì tỉ lệ là 50/50. 
Cả hai loại đường không có loại nào tốt hơn hay xấu hơn đối với bạn, nhưng được cơ thể bạn chuyển hóa một cách khác nhau  Fructose bị “phá vỡ” ở trong gan nên không gây phản ứng insulin. Trái lại glucose thì bị “phá vỡ” ngay trong dạ dày nên cần sự phóng thích insulin vào dòng máu thì mới có thể được chuyển hóa (metabolized) hoàn toàn.
Tuy thế bạn đừng nên có ý nghĩ là vì thành  phần đường trong trái cây và bánh ngọt như nhau nên ăn trái cây hay ăn bánh ngọt cũng vậy . Thật ra trái cây còn chứa nhiều thứ tốt như vitamin, các chất chống oxi hóa và nước, trong khi kẹo bánh chẳng có lơi ích dinh dưỡng gì. 
Ngoài ra trái cây chứa ít đường hơn nếu tính theo thể tích : nửa “cup” dâu tây chứa 3.5 gram đường trong khi nửa” cup” kem dâu tây  chứa tới 15 gram đường.

Hơn nữa trái cây nguyên trái chứa nhiều chất sơ, chất này làm chậm sụ tiêu hóa glucose trong cơ thể nên không làm insulin tăng đột ngột giống như kẹo. Điều nảy cũng có nghĩa là cơ thể bạn có nhiều thời gian hơn để sử dụng glucose như là nhiên liệu trước khi tồn trữ glucose dư thừa dưới dạng mỡ. 
Ngay cả các trái cây khô- một món ăn ngọt  có tiếng vẩn còn giữ đủ các chất sơ và chất dinh dưỡng cũa chúng. Nhưng bạn nên cẩn thận đừng ăn quá nhiều trái cây khô có thêm đường (đọc nhãn dán dinh đường thì biết ) bởi vì chúng nhỏ bé hơn trái cây tươi. Không tin bạn hãy  so sánh số hạt nho khô với số trái nho tươi  trong một vốc nắm tay
Nói chung, tại Mỹ dân chúng không ăn trái cây đủ nhiều vì vậy chúng ta không  nên loại bỏ trái cây ra khỏi thực đơn để giảm lượng đường dung nạp. Bản thân đường không độc hại, nhưng ăn quá nhiều đường qua bánh kẹo thì không tốt.

Bạn nghiện Internet tới mức nào?


 15 Things to Avoid on Facebook ...
Giáp Văn Dương/Nhịp Sống Số
www.duongdoimuonneo.blogspot.com - Chứng nghiện Internet dễ thấy nhất là cơn say lướt Facebook, là một trong những vấn đề ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu lên tiếng cảnh báo. 
Tuy nhiên, nghiện Internet có tương tự như các chứng nghiện đã được biết đến như nghiện rượu, nghiện thuốc lá, nghiện ma túy?


Hội chứng nghiện Internet được cảnh báo lần đầu tiên năm 1995 bởi Ivan Goldber khi ông mô tả chứng nghiện đánh bạc theo các tiêu chuẩn thống kê và chẩn đoán của các bệnh tâm thần .
Có chăng chứng nghiện Internet?
Cùng với sự phát triển của công nghệ băng thông rộng và sự phổ cập của Internet, chứng nghiện Internet ngày càng nhiều. Tuy nhiên, đó có phải là một chứng nghiện hay không thì đến nay vẫn chưa có một thống nhất.
Năm 2006, Hiệp hội Y khoa Mỹ (American Medical Association) đã từ chối việc khuyến khích Hiệp hội Tâm thần Mỹ (American Psychiatric Association) đưa chứng nghiện Internet vào thống kê và chẩn đoán của các bệnh tâm thần. Điều này vừa được công bố ngày 22-5-2013. 
Trong đó, tuy bị phủ nhận là một bệnh nghiện chính thức, nhưng Hiệp hội Tâm thần Mỹ vẫn đưa chứng nghiện Internet vào phần phụ lục với hàm ý đây là vấn đề đáng quan tâm, cần nghiên cứu tiếp. Tuy nhiên, chứng nghiện Internet vẫn là một chủ đề chưa được giới chuyên gia lưu ý.
Với một số nước châu Á như Hàn Quốc và Trung Quốc thì chứng nghiện Internet được coi là một hiện tượng thực tế đáng lo ngại, nhất là khi ngày càng có nhiều thanh thiếu niên vì mải mê chơi trò chơi trực tuyến đến mức chết tại chỗ trong quán Internet. 
Với Hàn Quốc, chứng nghiện Internet thậm chí còn bị xếp thành một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất về sức khỏe.
Ngay từ năm 2006, Hàn Quốc đã có 210.000 trẻ em tuổi từ 6-19 bị mắc chứng nghiện Internet và cần điều trị. Trong số đó, 20-24% số trẻ này cần phải được điều trị trong bệnh viện. Ngoài ra, do chơi điện tử nhiều, lên đến 23 giờ/tuần, nên 1,2 triệu học sinh Hàn Quốc cũng có nguy cơ bị nghiện Internet và cần được cố vấn. 
Đến tháng 6-2007, Hàn Quốc đã huấn luyện 1.043 chuyên gia cố vấn để làm việc trong 190 trung tâm và bệnh viện điều trị chứng nghiện Internet.
Tại Trung Quốc, tình hình cũng đáng lo ngại ở mức tương tự. Theo báo cáo, năm 2007 có khoảng 10 triệu thanh thiếu niên Trung Quốc mắc chứng nghiện Internet, ứng với khoảng 13,7% thanh thiếu niên sử dụng Internet.
Các nghiên cứu khác cho thấy với đại chúng, tỷ lệ người có dấu hiệu nghiện Internet vào khoảng 6-15%. Với học sinh sinh viên, tỉ lệ này lên đến 13-18,4% (6). Như vậy, có thể ước lượng sơ bộ tỉ lệ người nghiện Internet trung bình là khoảng 10% số người sử dụng.
Số người sử dụng Internet ở Việt Nam tính đến tháng 11-2012 lên đến hơn 31 triệu người. Tuy chưa có nghiên cứu thống kê nhưng nếu tỉ lệ người có triệu chứng nghiện Internet tính ở mức thấp nhất là 6% thì tỉ lệ người có triệu chứng nghiện Internet lên đến 1,8 triệu người. Một con số đáng lo ngại. Tuy nhiên, ở Việt Nam có thể có tình trạng nhiều người dùng chung một máy tính nên tỉ lệ người nghiện Internet sẽ ít hơn. 
Để làm rõ tình trạng này cần phải có một điều tra xã hội học nghiêm túc trước khi đưa ra những kết luận chắc chắn.

Nghiện vì nhận thức hành vi
Việc lạm dụng Internet là do nhận thức lệch lạc dẫn đến hành vi cũng lệch lạc theo, như chơi game online (trò chơi trực tuyến) quá mức, đánh bạc, truy cập các nội dung đồi trụy quá nhiều… tạo ra chứng nghiện Internet. Vì thế, điều trị chứng nghiện Internet trong trường hợp này sử dụng lý thuyết nhận thức - hành vi, theo đó nhấn mạnh việc sử dụng Internet có kiểm soát, và cho rằng chính suy nghĩ, nhận thức sẽ tạo ra cảm xúc, vì thế cần phải xác lập nhận thức đúng trước hết.
Việc điều trị chứng nghiện Internet theo cách này có những đặc điểm rất gần với một số quan niệm của nhà Phật như chánh kiến, chánh niệm, chánh tư duy. Vì thế, có thể vận dụng những quan điểm gần gũi này của văn hóa Phật giáo truyền thống để giúp người nghiện Internet điều chỉnh hành vi của mình.

Nghiện vì tâm lý được bù trừ

Người dùng Internet cảm thấy được bù đắp những khiếm khuyết ở ngoài đời thực, đặc biệt là với giới trẻ. Chẳng hạn, áp lực học hành nặng nề và đặc biệt là việc thi cử, đánh giá tài năng chỉ dựa trên điểm số đã làm giới trẻ mệt mỏi và tìm kiếm sự khẳng định mình trên thế giới ảo. Ngoài đời, một trẻ có thể nhút nhát, ít bạn, hay bị trêu chọc, điểm số kém, nhưng trên thế giới ảo, cậu ta có thể là một game thủ có tiếng và được vị nể. 
 
Ngay cả người lớn cũng có xu hướng dùng thế giới ảo để tìm kiếm cảm giác bù đắp những thất bại hoặc trốn tránh các khó khăn thực ngoài đời. Việc kết bạn, giao tiếp, khẳng định mình trên mạng cũng dễ dàng hơn so với ngoài đời thực. Vì thế, bên cạnh việc tìm kiếm sự thừa nhận mình trên mạng thì việc trốn tránh cuộc đời thực bằng cách sống trong thế giới ảo cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến chứng nghiện Internet.
Cách thức điều trị tốt nhất là khuyến khích các hoạt động thực ngoài đời, giao tiếp thực, bình tĩnh giải quyết các khó khăn thực, đặc biệt phải cải tiến việc đánh giá năng lực, thay vì chỉ sử dụng một tiêu chuẩn giản đơn như điểm thi hay tiền bạc. 
Cần hình thành một cách thức đánh giá năng lực cởi mở và toàn diện hơn cho xã hội.
Nghiện do tâm lý thần kinh

Chứng nghiện Internet liên quan trực tiếp đến các vấn đề về tâm lý và thần kinh. Động cơ nguyên thủy của con người là tìm kiếm hạnh phúc, khoái cảm và lảng tránh khổ đau. Có thể cùng phối hợp với các động cơ khác, như mong muốn khẳng định mình, là một trong các thôi thúc người ta bước vào sử dụng Internet. 
 
Khi sử dụng Internet thì hệ thần kinh được kích thích và người dùng có trải nghiệm khoái cảm. Nhưng khi nghiện, khoái cảm này sẽ trơ dần, dẫn đến thôi thúc tái sử dụng ở mức độ cao hơn. Dần dà, điều này gây ra cảm giác “vật vã” khi không được sử dụng Internet, với những biểu hiện cụ thể như: bồn chồn, mất ngủ, cảm xúc bất ổn định, dễ bực bội, cáu kỉnh... Những điều này sẽ tích tụ và chuyển thành các phản ứng tiêu cực của người nghiện Internet như nhận thức sai lệch, dữ tợn, thù nghịch, đổ lỗi...
Và để giải tỏa các phản ứng tiêu cực này cũng như hệ lụy của nó mang lại, người ta lại tăng cường sử dụng Internet để trốn tránh, để tìm lại cảm giác thỏa mãn, để xác lập giá trị của mình trong thế giới ảo. Vòng xoáy cứ như vậy tiếp tục làm người nghiện ngày càng khó bứt ra khỏi thế giới mạng.
Bạn có nghiện Internet không?
Đọc đến đây, câu hỏi mà bạn phải đối diện một cách trung thực: bạn có nghiện Internet không? 
Nếu có đầy đủ các biểu hiện sau thì bạn có thể bị coi là đã nghiện Internet:
1) Lạm dụng: thường gắn kèm với việc mất cảm thức về thời gian, thậm chí quên cả nhu cầu cơ bản như ăn, uống, vệ sinh…
2) Biểu hiện “vật vã”, như giận dữ, căng thẳng, thậm chí trầm cảm khi không được sử dụng Internet.
3) Mức độ sử dụng tăng, biểu hiện qua tăng thời gian dùng Internet, nhu cầu về máy tính mạnh hơn, cần phần mềm nhiều tính năng hơn.
4) Hậu quả tiêu cực như tranh cãi, nói dối, thành tích học tập/làm việc kém, tách rời xã hội, mệt mỏi thường xuyên…

Đến nay tuy chưa có một xác định giữa các nhà nghiên cứu về chứng nghiện Internet, nhưng những hậu quả của việc lạm dụng Internet đến sức khỏe và tâm thần, năng suất làm việc, cuộc sống gia đình, quan hệ xã hội… là có thực. 
Nhiều quốc gia đã hiển nhiên thừa nhận hội chứng nghiện Internet là một trong những nguy cơ tàn phá sức khỏe , đặc biệt là với giới trẻ.
Vì thế hãy sử dụng Internet một cách thông minh để nâng cao năng suất làm việc và chất lượng cuộc sống, thay vì bị nó nuốt chửng và tàn phá cuộc đời bạn.

Thursday, November 28, 2013

Lịch sử của sự gây mê trong phẩu thuật




 
Theo Việt Sceiences
 
www.duongdoimuonneo.blogspot.com - Cho đến nửa đầu thập niên 1840, những cuộc giải phẫu ở trên thế giới, từ Á sang Âu và Bắc Mỹ đều tương tự như thế.  
Ngoài người y sĩ giải phẫu, còn cần hai, ba người lực lưỡng, để đè giữ người được giải phẫu.  
Người được giải phẫu tỉnh táo, nghe tiếng cưa, dao cắt qua thịt, qua xương, và la hét rên rĩ vì đau đớn.  Nhà giải phẫu phải rất nhanh tay, cưa chân chỉ mất có 25 đến 27 giây, vì nếu làm lâu hơn, bịnh nhân có thể chết vì chịu không nỗi sự đau đớn.   Những tiếng la hét vì đau đớn có thể vang dôi đến độ người đi ngoài đường cũng nghe được.  Darwin còn phải nhìn nhận là các cuộc giải phẩu rất ghê rợn và hai trường hợp giải phẫu mà ông đã chứng kiến khi chưa có thuốc mê vẫn ám ảnh ông trong nhiều năm. (Darwin & Barlow, 1958)

1- Ether : (CH3CH2)2O


Mãi đến ngày thứ sáu 16 tháng 10 năm 1846, mọi việc mới thay đổi.  Ngày đó, tại bịnh viện Tổng quát tiểu bang Massachusetts ở Boston, thuốc gây mê đã được áp dụng trong một ca mổ, mở đường cho những bước tiến nhảy vọt của y khoa, và giải phẫu.  

Ngày đó, Bác sĩ John Collins Warren (1753–1815) trưởng khoa giải phẫu bịnh viện tổng quát Massachusett (Massachusetts General Hospital) đã mời nha sĩ William T. G. Morton (1819 - 1868). đến phụ giúp ông để cắt bỏ cái bướu ở cổ của Gilbert Abbott.  
Thường thì trường hợp này chỉ là một ca mổ không quan trọng, và chỉ mất khoảng 3 phút đồng hồ. Ðiều khác biệt là bác sĩ Warren muốn dùng một phương thức mới: sự gây mê nơi bịnh nhân trong suốt cuộc giải phẫu, và Morton là người phụ trách việc này. Morton đã cho Abbott hít ê te (ether) và ngay sau đó, bác sĩ Warren đã tiến hành việc cắt bỏ cái bướu.  Sau đó Abbott xác nhận:
- Tôi không hề cảm thấy đau đớn chút nào trong suốt thời gian giải phẫu, chỉ có lúc gần hết, tôi có cảm tưởng như có một vật gì hơi cùn, cà vào da tôi. (Fenster, 2001, tr. 80)
 
Ngày 16 tháng 10 năm 1846 được chính thức ghi nhận là Ngày ê te (Ether Day), và tòa nhà có phòng giải phẫu đó được đặt tên lại là Vòm ê te (Ether Dome).  
Ngày 17 đã có thêm một cuộc giải phẫu cắt bỏ một cái bướu trên cánh tay của một phụ nữ. Theo đề nghị của bác sĩ Warren, bác sĩ George Hayward đã nhờ nha sĩ Morton dùng ê te gây mê cho bịnh nhân.  
Cuộc giải phẫu này kéo dài đến bảy phút, nhưng nha sĩ Morton đã theo dõi và cho bịnh nhân hít ê te nhiều lần. Sau khi mổ xong, bịnh nhân xác nhận là không hề cảm thấy đau đớn gì hết, và đã vui vẻ kể chuyện về đứa con của bà, đang chờ đợi bà ở nhà. Giải phẫu với thuốc gây mê ê te đã thành công, 
Mở đầu kỷ nguyên mới cho ngành giải phẫu. Nhưng nếu nha sĩ Morton và các bác sĩ Warren và Hayward là những người chính thức dùng ê te để gây mê trong các cuộc giải phẫu thì đã có nhiều người khác đã biết đến ê te và những thuốc gây mê tương tự.  
Chính Morton đã dùng ê te để gây tê ở trên mặt và nhổ răng thật sự không đau vào ngày 30 tháng 9 năm 1846.  Nhờ đó mà bác sĩ Warren mới mời ông phụ giúp việc gây mê ngày 16 tháng 10 như đã nói ở trên.

Những người khai phá


Theo tài liệu trích dẫn trong
  
dược sĩ Raymundus Lullius, người Tây ban nha đã tìm ra ê te ngay từ năm 1275 và gọi hơi này là "lưu toan dịu" (sweet vitriol. Vitriol là tên cũ của acid sulfuric)
Ðến năm 1540 khoa học gia Valerius Cordus, người Ðức đã ghi lại phân chất của chất lưu toan dịu này.  Và cùng thời gian đó Paracelsus,  nhà vật lý và luyện kim người Thụy sĩ đã phát hiện tác dụng thôi miên của lưu toan dịu. 
Mãi đến năm 1730, W.G. Frobenius, một khoa học gia người Ðức mới đổi tên "lưu toan dịu" thành ê te (CH3CH2)2O..
E te được điều chế từ sự khử nước của rượu ethanol ở 140°C dưới sự hiện diện của acid sulfuric
2H3C-CH2OH ---[H2SO4], (140°C)-->
-H2O
(CH3CH2)2O
         
Các nhà vật lý và khoa học gia đã dùng ê te trong nhiều việc khác nhau, nhưng không ai biết dùng ê te như một chất hơi gây mê. 
Ngay từ năm 1794, các y sĩ người Anh như Richard Pearson Thomas Lovell Beddoes (1803-1849), đã dùng ê te để trị một chứng lao, bịnh sạn ở bọng đái và bịnh phù thủng.   Ðầu thế kỷ thứ 19, vài y sĩ Hoa kỳ dùng ê te để trị một vài chứng sưng ở trong phổi.
 
Michael Faraday (1791 - 1867) nhân viên bào chế trong dược phòng đã tìm ra khả năng làm mê của hơi ê te. Faraday là nhà vật lý học kiêm hoá học người Anh, nổi tiếng  nhờ những  khám phá về sự cảm ứng điện từ (induction électromagnétique) và những định luật điện giải (**).
Y sĩ Henry Hill Hickman đã thử nghiệm một cách cẩn thận ảnh hưởng của hai chất hơi ê te và "khi' chọc cười" trên thú vật.  Ông có ghi lại trạng thái lơ lửng của thú vật giúp cho việc giải phẫu chữa trị chúng tiến hành được dễ dàng.  Tiếc là ông mất quá sớm khi mới 29 tuổi, nên không có đóng góp được nhiều.

2- Protoxyd nitơ: N2O

Những người khám phá

Trong khoảng 30 năm cuối thế kỷ thứ 18 (1773), Joseph Priestley, mục sư Anh giáo ở Leeds và là một người mê say Hóa học đã  cô lập được thán khí (CO2, gaz carbonique), tách dưỡng khí trong không khí, và tạo ra được oxyd ni tơ (oxyde d'azote) thuần chất. 
Ông lại tạo ra được protoxyd ni tơ (protoxyde d'azote; N2O) mà sau đó được gọi là "khí chọc cười" (laughing gas hay gaz hilarant). Khí này có tác dụng làm cho người hít nó ở trong một trạng thái phiêu diêu, lơ lửng, và cảm thấy vui vẻ, yêu đời, nhiều khi cười cợt như điên.  Ông mất năm 71 tuổi, mà chưa nhận thức được khả năng làm dịu hay giảm bớt đau của chất "khí chọc cười".
N2O (protoxyde d'azote, Nitrous Oxide)
Khối lượng phân tử: 44,01g
Nhiệt độ sôi: -88,5°C
Độ nóng chảy: -90,8°C
Mặc dù là chất khí không cháy, nhưng  ở 650°c nó cháy nổ
N2O được điều chế từ sự khử nước của nitrat ammonium ở 250°C:
NH4NO3 ---- (250°C)--->
-2H2O
N2O  
Ngoài việc dùng  làm thuốc tê để nhổ răng, N2O còn dùng làm chất bán dẫn. Người ta cũng dùng N2O  để tăng công suất cho xe hơi (xem phụ chú 1) và hỗn hợp 50% oxy và 50% N2O hít vô sẽ giảm đau và bớt stress..
      
Năm 1788    Humphrey Davy, một dược sĩ tập sự đã tiếp tục công trình nghiên cứu của Priestley trên "khí chọc cười".  Ông đã chế tạo một bộ máy nhỏ, gồm một bao bằng lụa, có  chốt mở, đóng để dễ điều khiển việc cung cấp chất khí đó.  Ông đề ra giả thuyết là "khí chọc cười" có thể dùng làm cho người bịnh mất cảm giác, do đó không bị đau đớn trong các cuộc giải phẩu.   Nhưng không có ai trong ngành y khoa để ý đến giả thuyết này.


 Horace Wells (1815-1848) là một nha sĩ ở Hartford, Connecticut, Hoa kỳ.   Ông đã nhờ Gardner Q. Colton cho ông hít  protoxyde d'azote N2O trước khi để đồng nghiệp là nha sĩ John Riggs nhổ răng cho ông vào tháng 12 năm 1844.  Kết quả đã hết sức tốt đẹp vì ông đã không hề cảm thấy đau đớn khi bị nhổ răng.   
Ông quyết định áp dụng việc hít  protoxyde d'azote cho các bịnh nhân của ông, và thân chủ đã đổ xô đến để cho ông nhổ răng.  Nhưng ông đã thất bại khi ông thử áp dụng lối gây mê với protoxyde d'azote trong một cuộc giải phẩu với bác sĩ Warren trong năm 1845.

William Green Morton (1819-1868) là nha sĩ ở Boston.  Ông cũng dùng protoxyde d'azode  để gây tê cho các thân chủ đến nhổ răng với ông.   Nhưng khác hơn Horace Wells ông cũng thử dùng ê te vì ông đã nghiệm được tác dụng của chất này.  Những thành quả của ông trong việc gây tê với ê te đã được bác sĩ Warren theo dõi, và đã mời ông làm người gây mê trong ngày lịch sử ê te, 16 tháng 10 năm 1846 đã kể ở trên.   Morton may mắn được đồng nghiệp là Charles T. Jackson khuyên nên dùng ê te để gây tê trước khi nhổ răng cho thân chủ.  Ông cũng khuyên Morton nên chế tạo một cái máy để có thể cung cấp ê te đúng liều lượng và theo ý muốn.  Morton đã may mắn có Josiah Holbrook, một sinh viên tốt nghiệp đại học Yale, và là một người chuyên chế tạo các dụng cụ y khoa tại Boston lúc bấy giờ.  
Morton và Warren đã gửi phúc trình báo cáo về hai vụ giải phẫu có dùng ê te để gây mê lên các báo chuyên môn về y khoa.  Do đó Morton được nhìn nhận là người đã khám phá ra khả năng gây mê của ê te và áp dụng thành công khả năng đó.



Crawford W. Long (1815- đã dùng  ête sulfurique để gây tê từ 1842 và có lúc ông đã nhờ Robert Goodman, một người có tiệm dược phòng ở Athens, tiểu bang Georgia gởi cho ông ê te xuống nơi ông làm việc ở Jefferson, cũng trong tiểu bang Georgia.  Nhưng không may cho ông, những người ở Jefferson cho là ông làm trò ma quỷ và đã buộc ông ngưng dùng ê te.  Sau này tiểu bang Georgia dựng tượng của ông trong Nghị viện tiểu bang.

Chloroform

Chloroform là một chất lỏng không màu, mùi dễ chịu và vị hơi hơi ngọt.  Ðược chế tạo cùng lúc vào năm 1831 ở hai nơi xa cách nhau, một bởi Justus von Liebig ở nước Ðúc và một bởi Eugene Soubeiran ở nước Pháp.  Bác sĩ sản khoa James Y. Simpson đã dùng Chloroform làm thuốc gây mê vào năm 1847 tại Edinburgh, Ecosse (Tô cách lan) trong khi đỡ đẻ.   Sau đó việc dùng chloroform như loại thuốc gây mê trong các cuộc giải phẩu đã lan tràn ở Âu châu.  
Nhưng mãi đến đầu thế kỷ thứ 20, chloroform mới bắt đầu được sử dụng thay cho ê te ở Bắc Mỹ.  Nhưng trong các xứ mới bắt đầu mở mang, người ta vẫn còn dùng ê te, vì dễ kiếm, rẻ tiền và tương đối an toàn.  Chloroform đã không còn được thông dụng vì có thể tạo ra chứng đứng tim đột ngột.   
Người ta thay chloroform bằng  Trichloroethylene một hydrocarbon cùng loại, nhưng chất này cũng không được dùng lâu vì có thể tạo ra ung thư.
Chloroform được sản xuất trong kỹ nghệ bằng cách đun hỗn hợp chlour và các clorometan ha metan ở 400-500°C. Ở nhiệt độ này một loạt phản ứng xảy ra biến đối methan hay clorometan từ từ thành những  hợp chất chứa nhiều clor
CH4 + Cl2 ---> CH3Cl + HCl
 
CH3Cl + Cl2 ---> CH2Cl2 + HCl
 
CH2Cl2 +Cl2 ---> CHCl3 + HCl
 
CHCl3 + Cl2 ---> CCl4 + HCl

Ethylen  H2C =CH2

Từ 1846, sau khi ê te được dùng làm thuốc gây mê, người ta đã thử hầu hết các chất khí  hoặc hơi có thể ngửi được để tìm ra những chất có thể gây mê hay tê có tác dụng tốt hơn và có hậu quả nhẹ hơn ê te.  Tháng 2 năm 1923, W. Easson Brown , làm việc trong phòng dược khoa của Ðại học Toronto đã trình bày những "Thí nghiệm sơ khởi với ê ty len như là loại thuốc gây mê tổng quát" (Preliminary Experiments with Ethylene as a General Anaesthetic).   
Qua tháng sau, Luckhartdt Carter bài "The physiologic effects of ethylene, a new gas anesthetic" (Tác dụng bịnh lý của ethylen, một chất khí gây mê mới).  Sau nhiều lần áp dụng thử, ethylen trở thành chất gây mê tổng quát, thay thế ê te và chloroform.  

Cyclopropane

Ðến 1930, người ta bắt đầu thử cyclopropane như một chất gây mê mới.  Cyclopropane mạnh hơn ê te và nitrous oxide, nhưng đặc tính của cyclopropane là chỉ cần chiếm 10 dến 15 phần trần trăm trong hỗn hợp khí, do đó dưỡng khí được tăng lên đến 85 hay 90 phần trăm, giúp người được gây mê dễ thở hơn.  (Nitrous oxide cần đến 85 hoặc 90 phần trăm trong  hỗn hợp khí, còn ê te cần đến 80 phần trăm).  
Do đó cyclopropane nghiễm nhiên trở thành thuốc gây mê tổng quát được dùng nhiều nhứt. Nhưng khi giải phẩu ở thân trên, người ta phải dùng một liều lượng cao cyclopropane hay ê te.  Ở liều lượng cao này, ê te và nhất là cyclopropane lại làm cho sức ép của cơ tim giảm, làm khó thở, và gan và trái cật không hoạt động bình thường được..  Các nhà nghiên cứu không dừng lại với cyclopropane được.
Howard Griffith đã áp dụng ê ty len lẫn cyclopropane trong việc gây mê tổng quát ở bịnh viện Homoeopatic ở Montréal (sau này đổi tên lại là bịnh viện Nữ Hoàng Elizabeth)  Số bịnh nhân được gây mê bằng cyclopropane tăng từ 350 người trong năm 1934 lên đến hơn 5000 người vào năm 1940.  Nhưng cyclopropane ở số lương cao có thể gây ra khó thở nơi người được gây mê. 
 

Intocostrin

Năm 1940, Lewis H. Wright đại diện của công ty Squibb đã đề nghị dùng Intocostrin, một dược chất trích từ độc dược Curaré để làm dịu phản ứng của Metrazol trên những người bị bịnh thần kinh.  Curaré là thuốc độc mà thổ dân ở Ba Tây và Nam Mỹ tẫm vào đầu mũi tên.    
Chỉ cần bị đầu mũi tên làm sướt da một chút là người bị thương có thể chết sau khi các bắp thịt bị tê liệt. Curaré được chế từ một loại dây leo mọc trên vòm cây khu rừng nhiệt đới của Nam Mỹ, và công ty Squibb đã lọc được dược chất Intocostrin.  
         
Dược sĩ McIntyre và bác sĩ tâm thần Bennett ở Omaha, Nebraska, đã thử Intocostrin ở liều lượng thật nhỏ, để kềm bớt phản ứng của Metrazol.  Sự thành công bất ngờ của loại thuốc mới làm cả hai rất vui mừng và đã tự động quảng cáo cho Intocostrin.  Nhưng những bác sĩ ở Hoa kỳ không may mắn khi thử với loại thuốc này.  
Bác sĩ Stuart Cullen đã thận trọng thử thuốc trên các con chó, và tất cả đều bị phản ứng khó thở gần giống như bị suyễn.  Bác sĩ Cullen không dám thử trên người, và để loại thuốc mới này qua một bên.   Nhưng ở Montréal Harold Griffith đưọc xem cuốn phim do bác sĩ Bennett thâu.         
Vào ngày 23 tháng 1 năm 1942, Harold Griffith cùng với cô phụ tá Enid Johnson đã thử dùng Intocostrin làm thuốc gây mê trên một bịnh nhân cần mổ ruột dư.  Intocostrin gây mê như cyclopropane, nhưng lại hơn ở chỗ làm dịu các cơ và bắp thịt, khiến cho việc giải phẫu diễn tiến một cách dễ dàng.  Sau đó, bác sĩ Griffith và cô Johnson đã thu thập tài liệu và công bố 25 trường hợp giải phẫu dùng Intocostrin làm thuốc gây mê.  Bản báo cáo được tiếp đón nồng nhiệt và Intocostrin trở thành loại thuốc gây mê mới.  Bác sĩ Cullen, khi đọc bản báo cáo, đã dậm chân la trời và đã đem các mẫu Intocostrin ra dùng ngay.

 

Châm cứu           

Thuốc gây mê có diễn tiến như trên trong y-khoa Âu Tây.  Người Á Ðông, nhất là người Trung hoa có một phương pháp khác để gây tê.   Ðó là châm cứu.  
Châm là dùng kim bằng kim loại (có khì dùng tre chuốt thật nhọn, nếu gặp trường hợp không có kim) châm vào kinh mạch hay các điểm đã được xác định trước trên thân thể con người.  
Cứu là dùng ngải (cỏ, lá của những dược thảo) để hơ vào các huyệt.  Nhưng ngày nay châm cứu được hiểu như dùng kim bằng kim loại để trị.  Châm cứu đưọc xem như cách trị nhiều bệnh từ nhức đầu kinh niên đến mất ngủ, đau bao tử hay đường ruột ...  Nhưng chủ yếu, châm cứu rất công hiệu trong việc làm giảm đau nhức, và đã được dùng để gây tê ở một phần thân thể.

Châm cứu bằng  kim           

Nhiều nhà quan sát Tây phương đã được mục kích các cuộc giải phẫu quan trọng ở Trung quốc, mà người gây tê cho bệnh nhân là một châm cứu gia.  (Encyclopedia Britanica, trang 74).  Ðặc biệt là việc gây tê thường được thực hiện ở phần thân thể xa cách nơi giải phẫu, như châm sáu bảy kim vào cánh tay và bàn chân để gây tê ở vùng bụng, khi mổ cắt ruột dư bị sưng.    
Người ta giải thích theo y khoa Tây Âu là các mũi kim có thể đã tác dụng để cơ thể sản xuất ra các hóa chất trị đau như endorphins hay enkephalins.  Một thuyết khác cho rằng các kim châm vào kinh mạch sẽ tạo ra những tín hiệu làm tràn ngập hệ thần kinh, và loại bỏ các tín hiệu dẫn đưa sự đau đớn lên não bộ,  thuyết thứ ba cho là châm cứu chỉ là một cách tự kỷ ám thị, và nhờ đó mà bệnh nhân không thấy đau.

Châm cứu bằng  ngón  tay           

Ngoài việc châm cứu bằng kim, người Ðông y sĩ có khi dùng ngón tay hay móng tay đè lên các huyệt (giống như điễm huyệt trong các chuyện chưởng).  Áp lực của ngón tay cũng công hiệu như châm kim.  Khác với thuốc gây tê trong y khoa Tây phương, các huyệt thường nằm xa chỗ cần gây tê nơi cơ thể của người bệnh nên việc châm cứu không gây vướng bận cho việc giải phẫu.   Và cũng nhờ đó mà người bệnh không bị các hậu quả do thuốc tê gây ra.   
Hiện nay ở Bắc Mỹ cũng như ở Anh quốc đã có những hiệp hội về châm cứu để kiểm soát các Ðông y sĩ hành nghề này.  Ở Việt Nam, ngay từ các năm 1950-1960 đã có nhiều người học về châm cứu.  Bác sĩ  Y khoa Lê văn Phụng trong thập niên đó đã có phòng mạch chuyên về châm cứu ở góc đường Phan Thanh Giản và Ðinh Tiên Hoàng.  
Ông đã học thêm châm cứu ở Ðài loan sau khi tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ.   Nhưng cũng có nhiều người theo y khoa Âu Tây còn hoài nghi châm cứu và cho là việc châm cứu không có hiệu quả.
            
Loại thuốc gây mê mới này, tuy giúp các cơ, bắp thịt dịu lại mà không co cứng, nhưng buộc các chuyên gia gây mê phải giúp bịnh nhân thở điều hoà.  Nghĩa là vẫn còn cơ hội để tìm tòi và nghiên cứu về thuốc gây mê hay những cách gây tê không theo trường phái y khoa Âu Tây, hầu tìm ra những dược chất mới, phương cách mới gây mê hay gây tê một cách chính xác, không có những hậu quả khó chịu hay nặng nề,  mà vẫn giữ cho bịnh nhân được an toàn ở một mức tối ưu. 

 

Châm cứu bằng  tia laser hồng  ngoại           

Ngày nay người ta đã có thể châm cứu mà không cần chạm vào huyệt của người bịnh bằng kim hay bằng ngón, hoặc móng tay.  Người ta dùng tia laser để kích thích các huyệt cũng y hệt như châm cứu bằng kim.  Dùng tia laser ít hao tốn hơn và không  nguy hiểm cho người được chữa bịnh vì không có những  hiệu ứng  phụ bất lợi, và không sợ bị nhiễm trùng.  Châm bằng tia laser không đau, không để lại dấu vết, mà lại kích thích được các huyệt ở đúng độ sâu nhạy nhất.. 
Người ta đã dùng tia laser hồng ngoại, phát sóng liên tục, 15 mW,  632.8 nm cho những huyệt nằm gần da và tia laser hồng ngoại, phát sóng từng đợt (pulsed)  9.4W, 904 nm cho những huyệt nằm sâu hơn để chữa cho những người bị đau nhức ở cườm tay. (CTS )(Xem phụ chú 2).  Sau khi chữa trong vòng ba đến bốn tuần, những người bịnh CTS ở mức độ vừa phải (không nặng quá), đã dùng bàn tay làm việc lại được và trong hai năm sau không hề bị đau nhức nữa.
*****

Phụ chú

 (1) N2O chứa 2 nguyên tử nitrogen và  1 nguyên tử oxy. Ở 320°C, phân tử N2O bị phân tích cho ra nitrogen và oxy. Oxy này là oxy nguyên tử mới tạo thành nên có hoạt tính rất mạnh sẽ  giúp phản ứng cháy nổ với xăng cao hơn rất nhiều. Ngoài ra, trong  phòng đốt, N2O biến từ trạng thái lỏng sang  trạng thái khí nhờ sự sôi của nó (-88,5°C ) nên làm giảm nhiệt độ trong  các ống dẫn (nhiệt độ giảm xuống  còn 35-45°C). 
Khi nhiệt độ giảm, hỗn hợp khí xăng/không khí co lại (chưa kể khí nitơ vừa tạo thành lại làm chất khí để nén các  phân tử oxy và  xăng  lại gần nhau, giúp tạo phản ứng  nhanh hơn), vì giảm thể tích nên mật độ hỗn hợp tăng và khi có nhiều xăng và  không  khí hơn thì  phản ứng cháy nổ nhiều hơn, áp suất tăng  nhiều hơn và công suất của máy sẽ tăng. 
Tổng quát thì khi nhiệt độ giảm 6° là công suất máy tăng 1%. Thí dụ xe Toyota Supra 330 mã lực, lúc  N2O bắt đầu phản ứng, và nếu nhiệt độ giảm 40°C, thì công suất máy tăng  23 mã lực (cv). Hay một Dragster V8 Chevrolet 5800 CC-13 có hai turbos GT35R có công suất 1200cv  sẽ có công  suất máy tăng thêm 200cv khi cho thêm N2O. (Ngoài thị trường, người ta bán N2O dưới tên thương mại là NOS, Nitrous Oxyd System)
 Người ta tính có thể làm tăng công suất máy xe hơi từ 25  đến 500 mã lực.
** Phải rất cẩn thận khi dùng N2O N2O sôi ờ -88,5°C nên  sẽ làm bỏng da khi chạm phải. Phải mang  mặt nạ và găng tay cao su. Không để bình chứa gần mặt
  

Những yếu tố ảnh hưởng tới chiều cao của trẻ


 7 Ways to Help Your Kids Study ...


www.duongdoimuonneo.blogspot.com -  Chiều cao của trẻ phụ thuộc khá nhiều vào gen di truyền. Tuy nhiên, đây không phải yếu tố quyết định hoàn toàn mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. 

Để phát triển chiều cao cho trẻ tốt nhất ta cần hiểu thêm các yếu tố nào ảnh hưởng đến chiều cao trẻ. Khi trẻ có điều kiện thuận lợi cho đủ tất cả các yếu tố sẽ phát triển được chiều cao tối ưu của mình.
 
1. Gen di truyền

Yếu tố này phụ thuộc vào chiều cao của bố mẹ. Khi bé 1 tuổi thì trung bình cao 75-76cm. Khi 2 tuổi, chiều cao trung bình của bé sẽ là 86cm. Và theo ước tính chiều cao khi bé 2 tuổi nhân đôi sẽ ra chiều cao trung bình khi bé lớn. Để tính được chiều cao trung bình theo gen, có rất nhiều công thức được đưa ra:

Công thức 1

Chiều cao con trai = ((chiều cao mẹ + 15cm) + chiều cao bố) / 2

Chiều cao con gái = ((chiều cao bố - 15cm) + chiều cao mẹ) / 2

Công thức 2

Ta cần tính chiều cao trung bình của bố và mẹ:

TBBM = (chiều cao bố + chiều cao mẹ)/2

Với bé trai: chiều cao trung bình = TBBM + 6cm

chiều cao tối đa = TBBM + 11cm

chiều cao tối thiều = TBBM + 1cm

Với bé gái: chiều cao trung bình = TBBM - 6cm

chiều cao tối đa = TBBM + 1cm

chiều cao tối thiều = TBBM - 11cm

Đây chỉ là những công thức tính toán trên gen di truyền. Nên sẽ không hoàn toàn quyết định chiều cao trẻ sau này.

2. Yếu tố dậy thì và hormon

Chiều cao sẽ tăng từ khi hình thành cho đến hết tuổi dậy thì. Trước khi dậy thì, những phần xương ống (chân, tay) mềm và có thể thay đổi chiều dài. Khi dậy thì, các đĩa tăng trưởng Epiphysis bắt đầu được hình thành và cùng cố nên tăng trưởng dùng lại.

 Chiều cao sẽ tăng từ khi hình thành cho đến hết tuổi dậy thì. Trước khi dậy thì, những phần xương ống (chân, tay) mềm và có thể thay đổi chiều dài. Khi dậy thì, các đĩa tăng trưởng Epiphysis bắt đầu được hình thành và cùng cố nên tăng trưởng dùng lại.

Với con gái, thời kỳ tăng trưởng nhanh nhất là từ 8 - 13 tuổi. Còn con trai sẽ từ 10 - 15 tuổi. Điều này cho ta thấy con trai có lợi thế hơn con gái 2 năm để phát triển nên chiều con con trai thương cao hơn con gái.

Bên cạnh đó, nội tiết tố nam Testosterones giúp xương phát triển lâu hơn. Tại thời điểm này, chiều cao có thể tăng 7cm - 12cm / năm. Sau đó vẫn tiếp tục tăng chậm dần cho hết tuổi trưởng thành, với con gái là 18 tuổi và con trai là 20 tuổi.

Có 1 thuật ngữ "tuổi xương" và để biết được tuổi xương các bác sỹ phải dùng X-quang chụp xương và so sánh.Tuy nhiên, "tuổi xương" có thể khác với tuổi thực. Nếu tuổi xương phát triển nhanh hơn thì chiều cao sẽ hạn chế hơn và ngược lại. Thế nên ta thường thấy có những người qua tuổi dậy thì mà vẫn có thể tăng thêm chiều cao.

3. Yếu tố môi trường và xã hội

Môi trường, xã hội cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tăng chiều cao của trẻ. Chiều cao trẻ phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện sống khi còn bé.

Các yếu tố môi trường như tầng lớp xã hội, giáo dục của cha mẹ... Những bé phải nhập viện khi còn thơ ấu thường thấp hơn với bé không bị nhập viện.

Trẻ có cha mẹ ly thân hay ly dị cũng thường thấp hơn. Nhất là trẻ có cha mẹ ly dị giữa lứa tuổi từ 4 - 7 tuổi. Môi trường căng thẳng dễ ảnh hưởng đến chiều cao trẻ.

Khoảng 20% chiều cao phụ thuộc vào môi trường ở đâu và điều kiện sống như thế nào.

4. Hoạt động thể thao

Trẻ được hoạt động thể thao thường cao hơn ví dụ như bóng rổ, bóng chuyền, bóng đá, bơi lội...

5. Dinh dưỡng

Đây cũng là một yếu tố quyết định rất lớn tới sự phát triển chiều cao trẻ. Chiều cao tăng từ khi hình thành đến hết tuổi dậy thì. Tuy nhiên, có ba giai đoạn quan trọng: giai đoạn phôi thai, trong độ tuổi từ 6 - 8, và tuổi niên thiếu. Cách ăn uống thích hợp và chăm sóc sức khỏe trong 3 giai đoạn này có thể có ảnh hưởng rất lớn về chiều cao trẻ.

Khi còn mang thai, nếu trẻ được nuôi dưỡng bổ sung tốt, Cha me không hút thuốc, uống rượu... trẻ sẽ có lợi thế phát triển tốt hơn.

Dinh dưỡng cần phải có đủ năng lượng phù hợp với từng lứa tuổi. Nếu quá ít bé sẽ suy dinh dưỡng nhưng quá nhiều lại gây béo phì. Bữa ăn trẻ cần đủ 4 yếu tố: đạm (chiếm 10-15% tổng năng lượng), tinh bột (chiếm 60-65% tổng năng lượng), chất béo (chiếm 10% tổng năng lượng) và rau. Không nên ăn bất cứ thứ gì quá nhiều, mất cân bằng.

Vitamin và khoáng chất cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển chiều cao của trẻ em. Ví dụ, bạn có thể tìm thấy canxi nhiều trong sữa, đậu tương và rau quả.

Sữa có chứa một lượng canxi lớn để hấp thụ được dễ dàng hơn nhờ sự kết hợp của vitamin D và photpho trong sữa. Để canxi hấp thụ dễ dàng hơn, bạn nên dành 20 phút phơi nắng cho trẻ hàng ngày. Ngoài ra, sữa cung cấp nhiều vitamin, khoáng chất và nguồn protein có giá trị cao sinh học và axit amin quan trọng.

Bạn cũng nên chú ý đến vitamin A. Nó ngăn ngừa khô mắt cũng như cải thiện khả năng chống lại nhiễm trùng và tham gia phát triển chiều cao. Một số loại thực phẩm có nhiều vitamin A là sữa, trứng, cá và thịt.

Bên cạnh đó, sắt và kẽm cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển chiều cao. Sắt có nhiều trong các món ăn động vật như thịt, cá... Trong khi đó, kẽm có thể được tìm thấy trong con hàu, gan lợn, bò thịt, sữa, đậu nành sữa và lòng đỏ...

Như vậy ta thấy chiều cao là kiểu hình xác định bởi di truyền và môi trường, dinh dưỡng và yếu tố gây căng thẳng...Chiều cao trong nhóm dân số khác nhau phụ thuộc vào sự tăng trưởng của xã hội về chăm sóc sức khỏe có sẵn, giáo dục về dinh dưỡng, và thực phẩm có sẵn. Điều này giải thích tại sao chiều cao trung bình ở các nước phát triển cao hơn so với các quốc gia khác.

Để phát triển chiều cao cho trẻ, ngoài những yếu tố ta không thể tác động như gen di truyền, hormon... thì có những yếu tố bên ngoài tác động, đây là những yếu tố cha mẹ có thể giúp bé phát triển được chiều cao tối ưu của mình. Cho trẻ tập luyện thể thao, ăn uống dinh dưỡng hợp lý, tạo điều kiện và môi trường sống trong sạch, lành mạnh.   (Theo Bên con mỗi ngày)

Wednesday, November 27, 2013

Ngôi trường hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan



 Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 1

Theo Trí thức trẻ

www.duongdoimuonneo.blogspot.com -  Đại học Bangkok hiện đang trở thành một điểm đến thú vị trong giới sinh viên Thái Lan nhờ một khu tích hợp học tập và giải trí cực kỳ hiện đại.

Để trả lời những câu hỏi đặt ra là: làm sao để có thể níu chân sinh viên sinh hoạt ngay trong trường? Sinh viên cũng không cần phải tìm đến quán cà phê, hay những tụ điểm vui chơi bên ngoài trường? Sinh viên luôn cần tìm một nơi vừa có thế tổ chức các buổi thảo luận, nghiên cứu khoa học, học tập theo nhóm lại vừa được dùng để giải tỏa áp lực căng thẳng học hành?... Các nhà lãnh đạo tại đại học Bangkok (Thái Lan) đã đưa ra một sự đầu tư đáng kinh ngạc.

Cùng với 49 kiến trúc sư nổi tiếng thủ đô Bangkok, các giáo sư của ngôi trường này đã đầu tư xây dựng một khu tích hợp học tập và giải trí cực kỳ hiện đại, biến ngôi trường thành một cơ sở đáng mơ ước cho tất cả giới sinh viên.



Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 2
Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 3

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 4 Phòng giải trí với bàn Bi-a siêu dài.

Khu này mang kiến trúc tổng thể bên ngoài như những viên kim cương khổng lồ. Bên trong chia thành những phòng ốc được bài trí và đầu tư trang thiết bị cực kỳ hiện đại gồm cả khu giải trí và khu học tập.

Khu vui chơi giải trí gồm các phòng hát karaoke, nhà ăn là nơi cho sinh viên tổ chức các sự kiện nhỏ, ở những góc nhà còn có bàn bi-a siêu dài (có lỗ điều chỉnh), phi tiêu khổng lồ…

Còn với những sinh viên nào ưa sự yên tĩnh tuyệt đối để học tập thì sẽ tìm đến khu học tập được trang bị những bộ bàn ghế sô pha tạo cảm giác thư thái, thoải mái để nghiên cứu và đọc sách.

Nằm ở vị trí thuận lợi ngay trong trung tâm trường, toàn bộ khu tích hợp học tập, giải trí này có tên là BU Lounge – Bangkok University Lounge, là ý tưởng của công ty nội thất hàng đầu ở Thái Lan Supermachine Studio.

Hoàn thành năm 2012, ngay sau khi mở cửa đón chào sinh viên trong trường và các bạn trẻ tại Bangkok, BU Lounge đã nhanh chóng gây được tiếng vang. Từ màu sắc sống động đến sự đa dạng của các mô hình trực quan đầy hấp dẫn, BU Lounge sẽ cho phép sinh viên trải nghiệm một ảo tưởng thị giác của không gian mà không nơi nào có được. Nhiều bạn sinh viên đã đồng tình rằng đây đúng là môi trường hoản hảo cho giới trẻ trong kỷ nguyên mới.

Cùng ngắm qua khu vực BU Lounge cực chất này:

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 5
Căn phòng tràn ngập ánh sáng nhờ thiết kế khung sườn và hệ thống cửa kính giúp tiết kiệm năng lượng

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 6
Có cả nơi để xem ti vi

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 7
Gấu trúc này cao 6,5 mét, bên trong là cầu thang xoắn ốc nối từ tầng trệt với tầng gác

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 8
Bên trong thân của gấu trúc khổng lồ

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 9
Lần đầu tiên khi mọi người bước chân vào đây đều không khỏi choáng ngợp

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 10
Một góc học nhóm nho nhỏ

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 11
Nơi này dành cho việc đọc sách

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 12
Trần nhà cũng được thiết kế khá ấn tượng

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 13
Bộ bàn ghế học tập cũng được thiết kế rất lạ

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 14
Các kiến trúc sư nói rằng du khách sẽ được trải nghiệm chứng ảo tưởng thị giác không gian cực lạ

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 15
Cầu thang toàn màu hồng

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 16
Hai tầng của tòa nhà

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 17
Khu nhà ăn

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 18
Khu tự học với những chiếc ghế sô pha cực kỳ rộng rãi, thoải mái

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 19
Mọi người đến đây đều bị choáng ngợp bởi màu sắc sống động

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 20
Một con gấu trúc khổng lồ nằm gọn trong tầng 1

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 21

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 22
Hình ảnh ngôi trường đại học Bangkok nhìn từ bên ngoài lúc trời sáng và tối

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 23
Những bức tường nền hồng, chấm bi tạo điểm nhấn thú vị cho toàn bộ kiến trúc

Ngôi trường siêu hiện đại và "bảy sắc cầu vồng" ở Bangkok Thái Lan 24
Phòng hát hiện đại.

Monday, November 25, 2013

Chắn mặt trời để làm mát trái đất


      www.kienthucvaban.blogspot.com - Một nhóm các nhà khoa học vật lý vừa đề xuất một kế hoạch hoàn toàn mới, đầy tham vọng và táo bạo về việc làm mát trái đất một cách nhân tạo.
  
     Trên lý thuyết, việc phản chiếu một phần ánh sáng mặt trời trở lại không gian trước khi chúng kịp tiếp xúc với bề mặt trái đất sẽ gây ra hiệu quả tức thì rõ rệt.
   
     Sử dụng hệ thống gương vũ trụ để phản chiếu ngược ánh sáng mặt trời về vũ trụ sẽ giúp giảm nhiệt cho Trái Đất ?
   
     Theo Daily Mail, nếu áp dụng phương pháp trên, chỉ sau vài năm nhiệt độ toàn cầu sẽ có thể giảm trở lại mức nhiệt của cách đây 250 năm, trước khi cuộc cách mạng không khí ngày càng cao, ngăn cản khí nóng bốc hơi lên và hậu quả cuối cùng là trái đất ngày một nóng lên.
    
     Tuy nhiên, không một ai biết phương pháp dùng gương phản chiếu có thể gây ra những tác dụng phụ nào ?
   
      Phát biểu tại Hột thảo toàn cầu về biến đổi khí hậu đang diễn ra tại Nam Phi, đại diện Tổ chức Hoàng gia Anh, Quỹ bảo vệ môi trường Mỹ và Viện khoa học các nước đang phát triển ý tưởng kiểm soát bức xạ mặt trời có hai khả năng " hoặc rất hữu ích, hoặc sẽ gây ra hậu quả không lường ".
   
     Việc các nền kinh tế lớn không thể thương lượng với nhau về lượng khí nhà kính cắt giảm đã khiến cho cả thế giới phải lo ngại. Rất có thể, chúng ta sẽ không cắt giảm đủ năng lượng khí gas cần thiết trong khoảng thời gian cho phép, để giữ cho khí hậu trái đất không biến đổi dữ dội.
   
      Nếu cho rằng phương pháp địa nhiệt không phải là sự lựa chọn thay thế cho cắt giảm khí carbon. Hội thảo dự đoán nhiệt độ thế giới có thể tăng vọt thêm tới 6,4 độ C vào năm 2100, nâng mực nước biển lên cao do băng hai cực chảy tan chảy và khí hậu toàn cầu hoàn toàn biến đổi theo chiều hướng khắc nghiệt hơn.

                                           

Trong tương lai rất gần sẻ không cần password để mở email


      
 www.kienthucvaban.blogspot.com - Năm nay là năm thứ 6 công ty IM công bố dự báo hằng năm có tên Five in Five, 5 phát minh chúng ta có thể gặp trong 5 năm sắp tới.

      NEW YORK - Các sản phẩm công nghệ này càng thu hẹp khoảng cách khoa học giả tưởng và khoa học thực tế trong cuộc sống, sẽ mang lại những thay đổi lớn. Các chuyên viên của IBM dự báo không bao lâu nữa, chúng ta sẽ không còn cần password để bước vào internet và không còn bận tâm về một số những chuyện khác.

      Một trong những phát minh khác, là chúng ta có thể phát ra một số năng lượng nhỏ để hổ trợ thêm vào số điện chúng ta dùng trong nhà.

      Ông Bernie Meyrson, Phó ban Phát minh của IBM giải thích : " thí dụ ở một nước nghèo, một người có điện thoại di động nhưng khu vực đó không có điện thì làm sao sạc điện thoại ?  Nếu trong giày dép của người đó có một bộ phận thu hồi được năng lượng trong lúc người đó đi đứng, năng lượng này có thể dùng để sạc pin cho điện thoại di động. "

      Một phát minh khác mà có lẽ những người hay quên password không cần phải lo nữa. Trong tương lai rất gần, muốn vào email hoặc giao dịch với ngân hàng qua internet, người ta sẽ dùng công nghệ sinh  trắc. Mỗi người có dấu tay hoặc tròng mắt riêng biệt, không ai giống ai. Tiến sĩ Meyerson của IBM : Máy móc sẽ nhận ra bạn. Mỗi lần bạn tiến đến máy rút tiền ATM, máy chỉ cần liếc một cái, thì sẽ biết bạn là ai "

     Ông Meyerson nói rằng : 5 năm nữa chúng ta không còn nhận thư rác trong hộp thư email, sẽ có một công cụ xoá chúng trước khi chúng lọt vào hộp thư của bạn. Một dự báo nữa : trong tương lai, chúng ta chỉ cần nghĩ trong đầu, không cần làm một động tác nào hoặc nói một lời nào, để sai bảo một công cụ điện tử làm chuyện gì.

      Phát minh này giúp ích cho những người bị tật nguyền, những người bị liệt tứ chi, họ có thể dùng các sóng trong não để ra lệnh cho các máy móc phục vụ họ, nhờ vậy họ có cuộc sống tự lập hơn, khỏi ngại phiền người khác giúp đỡ.

     Phát minh thứ 5, trong tương lai hầu như ai cũng có điện thoại di động hoặc điện thoại thông minh. Khi đó các điện thoại sẽ có chức năng thông dịch, người chủ điện thoại sẽ sử dụng chức năng này để giao thiệp với nhau, cho dù họ nói ngôn ngữ nào.

      Trong quá khứ, các dự báo 5 trong 5 của IBM có cái đúng cái sai, nhưng theo ông Meyerson, chúng khuyến khích các nhà nghiên cứu tìm tòi những phương tiện mới để biến trí tưởng tượng thành hiện thực.

                                                                Theo Tuần Báo Mới

Lòng nhân ái của nước Mỹ


                               Những thuyền nhân lênh đênh trên biển

        www.kienthucvaban.blogspot.com - Năm 1989, Cả nước Mỹ xôn xao về việc một người đàn ông đã đốt lá cờ Mỹ ngay trên thềm tòa nhà của Quốc Hội, trong buổi họp thường niên của đảng Cộng Hòa. Đã có nhiều bàn tán về sự kiện này từ phía chống đối cũng như ủng hộ.


        Ngày đó, tôi vừa tốt nghiệp đại học, chưa để ý nhiều đến những sinh hoặt chính trị, xã hội.. chung quanh, nhưng trong lòng tôi chợt dâng lên một cảm xúc " thật đáng tiếc " cho ông ta, người đàn ông đã đốt lá cờ Mỹ. Nếu ông ta đã được nhìn lá cờ Mỹ qua đôi mắt của tôi, và hơn một trăm người bạn đi cùng thuyền vào một buổi sáng mùa hè năm 1983.

        Một đêm của tháng 7 năm 1983, con thuyền nhỏ chở đầy kín người, đã ra tới hải phận quốc tế. Tôi đã hơi quen với mùi hôi tanh, lợm giọng trong thuyền nên cảm thấy hơi tỉnh táo...Ngước mắt nhìn lên bầu trời đang chuyển từ màu xám sang màu đen thẳm.... Tôi lẩm bẩm cầu nguyện cho chúng tôi được bình an. Cám ơn Trời, biển khá êm, con tàu không vật vã....Mà chỉ chồm lên rồi hạ xuống theo từng đợt sóng....Những âm thanh ồn ào...Tiếng khóc của con nít, tiếng phàn nàn..than thở....tiếng chửi rủa cũng lắng dần khi mọi người chìm vào giấc ngủ mệt mỏi....

         Hình như tôi cũng đã ngủ thiếp đi một lúc, vì khi tôi giật mình choàng dậy thì sự hoảng sợ đã chụp xuống chung quanh, cái đèn duy nhất trong phòng máy bị thổi tắt.

          Ông thuyền trưởng ra lệnh tắt hết đèn, lắng nghe những tiếng thì thào trao đổi...Tôi mới biết rằng, tàu của chúng tôi đang bị tàu cướp Thái Lan rượt đuổi. Chúng tôi phải tắt hết đèn chạy trong đêm đen của biển, trong khi tàu cướp của Thái Lan đang cố đuổi theo. Tôi cầu xin Thượng đế, Chúa, Phật ...cứu vớt chúng tôi...

         Chúng tôi chạy vòng vèo ngay trước mũi tử thần cả đêm...Và bình minh cũng đã tới...Những tia nắng..đã quét đi màn đêm, tiếng của ông thuyền trưởng :

         - Hình như tụi cướp biển đã bỏ đi.. rồi !

        Bổng có giọng của ai đó vụt la lớn:

         - Có tàu lớn...có tàu lớn... ở đằng xa kìa!

         - Tàu gì vậy ? Cầu trời .....cho tàu đó không phải là tàu của Liên Sô!

         Chúng tôi như được hồi sinh, ai cũng vui mừng..Cố gắng nhón người lên cao để mong được nhìn  rõ...hơn vì lúc đó chiếc tàu kia chỉ là một đốm nhỏ ở xa...Vài phút sau, một chiếc trực thăng nhỏ bay qua trên đầu của chúng tôi, mọi người trên thuyền vui mừng la hét như điên cuồng, nhiều người đàn ông cởi áo ra phất lia lịa, nhưng chiếc trực thăng...chỉ lượn vài vòng rồi mất hút. Dù sao... cũng đã có hy vọng được cứu ...ở phía chân trời..kia . Thế là, chúng tôi vội nhắm vào cái chấm đen ở tít đằng xa mà chạy tới. Và chiếc tàu kia hình như cũng đang chạy về phía chúng tôi, vì nó càng ngày càng lớn dần.

         Và...Suốt đời tôi....Sẽ không bao giờ quên giây phút đó...Giây phút ...mà một người đàn ông ngồi trên chỗ cao nhất của chiếc thuyền la lớn đến lạc cả giọng :

         - Thấy rồi!...Thấy cờ Mỹ rồi!!!

         Nước mắt của ông ràn rụa trên khuôn mặt khắc khổ..lấm lem dầu máy. Mọi người đều đứng bật lên... làm thuyền chao mạnh....Chúng tôi sung sướng vì quá sức vui mừng ....và hiểu rằng chúng tôi sẽ được cứu .....! Thật là một phép lạ .....

         Chiếc tàu cứu vớt chúng tôi là một Hàng Không Mẫu Hạm của Hoa Kỳ, Nó to như một toà nhà mười mấy tầng, những người thủy thủ trên tàu phải leo thang dây xuống để đem trẻ con và những người yếu sức lên trước...Chúng tôi bám vào thang dây, dò từng bước leo lên boong tàu. Vừa lên đến nơi, mỗi người được trao cho một ly sữa và một trái táo, trước khi tụ tập trong một góc của boong tàu, và rất ngạc nhiên khi thấy trên boong tàu đã có cả trăm người Việt Nam chạy ra đón mừng chúng tôi, thì ra chiếc Hàng Không Mẫu Hạm này cũng vừa mới cứu vớt một thuyền vượt biên khác ngày hôm trước.

         Sau khi mọi người đã lên tàu lớn, những thủy thủ Mỹ đã tưới xăng lên chiếc thuyền mà chúng tôi vừa rời khỏi, rồi châm lửa đốt. Đứng trên boong tàu nhìn vói theo chiếc thuyền nhỏ xíu đang bốc cháy và trôi dần ra xa, mặc dù biết rằng chúng tôi đã vô cùng may mắn được cứu vớt...Nhưng khi nhìn theo chiếc thuyền nhỏ xíu xa dần ...Lòng tôi vẫn thoáng ngậm ngùi....Tổng cộng số thuyền nhân được cứu lên đến gần hai trăm năm mươi người. Hồi đó tiếng Anh của tôi còn kém, lại thêm tính tình nhút nhát nên không dám hỏi han những người lính trên tàu, tôi chỉ nghe kể lại, chiếc Hàng Không Mẫu Hạm này đang trên đường đi công tác ở Phi Luật Tân. Họ đã nhìn thấy con thuyền của chúng tôi từ rất xa và quyết định đi chếch qua..... để cứu chúng tôi. Chiếc trực thăng bay qua trước khi chiếc HKMH đến cũng là do vị thuyền trưởng của chiếc HKMH gửi tới để xem xét tình trạng của chúng tôi.

         Trên tàu có sẵn một số quần áo cũ. Chúng tôi được phép lựa những thứ tạm mặc được, để thay đổi. Khổ nỗi, đống quần áo đã qua sự lựa chọn của những người đi trước, nên chỉ còn toàn là thứ khó mặc. tôi nhặt đại hai cái áo to bằng bốn khổ người tôi và một bộ áo liền quần màu xanh bó sát. Chẳng hề gì.... tôi vẫn vô cùng sung sướng.... vì ước mơ gần như hoang đường....nay đã trở thành sự thật; tôi đã trốn thoát khỏi Việt Nam và đang được ở trên tàu Mỹ.

         Sau tám năm bị đọa đày trong bức màn sắt của chế độ cộng sản trong nước. Thế hệ của chúng tôi, hầu như quên mất có một thế giới tử tế bên ngoài.....Trong những ngày trên chiếc HKMH của Hoa kỳ....tôi đã được gặp lại những cử chỉ lịch sự...những hành động nhân ái....Gần như đã biến mất trong xã hội nơi tôi vừa mới đào thoát. Những ân nhân của chúng tôi rất ân cần đến từng chi tiết nhỏ...một trong những việc đầu tiên họ làm là phát bao thư, giấy bút cho chúng tôi viết thư báo tin cho người thân. Mãi cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ chiếc phong bao màu xanh nhạt có hình chiếc hàng không mẫu hạm và tên của chiếc tàu ở góc, tôi vẫn nhớ mãi những ánh mắt thương cảm ....của những người trên tàu, nhìn chúng tôi nhếch nhác...bơ phờ dò từng bước để lên tàu.

         Suốt thời gian trên tàu, tôi vô cùng ái ngại cho những thủy thủ và các sĩ quan đã tốn không biết bao nhiêu công sức...để lo cho hơn hai trăm người chúng tôi. Vì hàng không mẫu hạm là đơn vị quân sự, nên chúng tôi không được phép ra khỏi phần cuối boong tàu. Mỗi người được phát một chiếc chăn màu xám, loại chăn của nhà binh Mỹ, mà tôi đã từng thấy trước năm 1975. Chăn rất tốt và khí hậu của biển Thái Bình Dương vào mùa hè khá ấm, nhưng chúng tôi phải nằm ngay trên boong tàu, và gió thổi lồng lộng khi tàu chạy nhanh, nên về đêm cũng rất lạnh, tôi ngủ rất ít, nên đã chứng kiến sự tận tâm của những người lính thủy trên tàu. Sáng sớm họ đã lăng xăng dọn thức ăn sáng cho chúng tôi.

         Phải mất mấy tiếng đồng hồ mới phục vụ hết mấy trăm người..rồi chỉ một lúc sau ..lại lục đục lo đến bữa ăn trưa..rồi lại bữa tối....Vấn đề vệ sinh cho hơn hai trăm người chen chúc trong một không gian nhỏ.... mới thật là kinh khủng...Mỗi sáng nhân viên trên tàu cùng chúng tôi dọn dẹp và tôi không thấy người nào tỏ thái độ khó chịu...cho dù phải làm những việc cực nhọc nhất.

          Mấy ngày ngắn ngủi trên tàu  ......mãi mãi là một trong những kỷ niệm khó quên.... nhất trong đời tôi....Trên chiếc hàng không mẫu hạm thật hùng vĩ đó.....Tôi đã được hiểu được thế nào là sự ấm áp của tình người ....và tấm lòng nhân ái của người Mỹ........những sinh hoặt hằng ngày.... qui củ và răm rắp như một guồng máy. Tôi nhớ, nhân viên trên tàu, ngoài nhiệm vụ riêng...họ còn phải chăm sóc chúng tôi, và phải lo rất nhiều giấy tờ cho thủ tục gởi chúng tôi vào trại tỵ nạn Thái Lan. Bận rộn như vậy..... nhưng không khí trên tàu luôn ấm áp và đầy tình người.....

         Mỗi sáng lễ chào cờ diễn ra, đám người tị nạn đứng sát bên thủy thủ đoàn, cùng lắng nghe quốc ca Hoa Kỳ vang vọng trong gió biển, tôi vẫn nhớ rất rõ cái cảm giác bàng hoàng..khi nhìn lá cờ Hoa Kỳ bay lồng lộng trong bầu trời xanh biếc của biển xanh....và tự nhũ không biết mình sẽ ra sao ....Nếu chiếc tàu này đến trễ ...chỉ một vài giờ của buổi bình minh hôm trước....

         Mỗi buổi chiều khi công việc đã xong, những thủy thủ túa ra trò chuyện với chúng tôi. Từ vị sĩ quan trong bộ đồng phục màu trắng tới những chàng thủy thủ, trong đồng phục xanh, họ ân cần vui vẻ... đùa giỡn với con nít...trò chuyện với mọi người....cố lắng nghe những câu tiếng Anh vụng về của chúng tôi... tìm hiểu xem...chúng tôi có cần thêm gì nữa không ?  Để chúng tôi được giải khuây, họ còn căng màn chiếu phim. Tôi nhớ mãi cuốn phim điệp viên 007 James Bond với tựa đề " For Your Eyes Only " giữa trời đêm lồng lộng ....  bầu trời trong xanh với muôn ngàn ánh sao, trên con thuyền đang lướt sóng... xuyên vào biển đêm, những hình ảnh rực rỡ chớp tắt trên màn ảnh vĩ đại làm tôi mơ màng...tưởng chừng như mình đang trôi.... trong đêm hoa đăng thần thoại.... của một giấc mơ kỳ diệu......

         Như thế đó.....Chúng tôi đã may mắn gặp được cái đẹp đẽ.... nhất của nước Mỹ, trước khi đặt chân tới đất nước này. Tôi đến Mỹ với vài dollars và hai, ba bộ quần áo tồi tàn, nhưng gia tài của tôi là lòng cảm mến.... ngưỡng mộ ....sâu xa với miền đất đầy tình người này ....cùng với hoài bảo sẽ cố gắng sống cho xứng đáng với sự hy sinh của gia đình và với sự may mắn mà Thượng đế đã mang những " sứ giã " trên chiếc hàng không mẫu hạm ....đến cứu vớt chúng tôi.

         Tuy thế, vấn đề lớn nhất mà tôi đã gặp trên đất Mỹ.... là một chuyện tôi chưa hề nghĩ đến : Đó là tình cảm của tôi đối với nước Mỹ .....đã làm tôi hoang mang ....trong trí óc của một thiếu nữ đang trưởng thành...một mình trên miền đất mới, tôi cảm thấy gần như....có lỗi với quê hương nghèo nàn Việt Nam...khi thấy mình càng ngày.... càng quen... với đời sống mới và thật sự yêu mến quê hương thứ hai này. Tôi cảm nhận được cái tinh túy của Hiệp Chủng Quốc vượt khỏi những nhiệm kỳ Tổng thống hay đảng phái. Tinh túy đó đến từ những người dân Mỹ. Có lẽ tình cảm của tôi với đất nước này... đã thành hình...từ lúc nhìn chiếc hàng không mẫu hạm mang lá cờ của Hoa Kỳ lớn dần từ phía chân trời trên vùng biển Thái Bình Dương...Từ ...cái khoảnh khắc ....thấy.....những người lính thủy thủ Hoa Kỳ ôm chặt..những em bé nhớp nhúa vì nôn mửa ...vào lòng...để đem lên chiếc hàng không mẫu hạm...từ khi anh thủy thủ của con tàu ân cần dùng con dao nhỏ, cắt bớt chiếc dép cao su cho vừa chân tôi, từ hình ảnh người sĩ quan trong bộ đồng phục trắng đang sắn quần gò lưng ...kéo dây ghìm cho thuyền nhỏ đứng yên để cho chúng tôi bước lên bờ biển Thái Lan... từ hình ảnh những người Mỹ đứng một hàng dài lưu luyến dõi mắt theo đám thuyền nhân chúng tôi đang lục tục đi vào trại mà còn cố ngoái lại nhìn họ...qua làn nước mắt...

         Tôi tin rằng : Không phải vị thuyền trưởng nghĩ rằng người Mỹ có trách nhiệm gì với chúng tôi...Nước Mỹ có quyền không cho phép chiếc hàng không mẫu hạm đi chệch hải đồ để cứu người giống như bao con tàu khác....đã làm ngơ với những chiếc thuyền vượt biển kém may mắn khác...

        Hơn nữa, những gì không thật... sẽ không tồn tại lâu bền, và tình cảm ban đầu của tôi đối với nước Mỹ sẽ mất đi, nếu tôi không càng ngày..càng thấy Hoa Kỳ là một đất nước bao dung. Tôi không ngây thơ nghĩ rằng - hay mong rằng nước Mỹ là hoàn hảo : Nhưng với tôi nước Mỹ là một dòng sông  mênh mông, đôi khi cũng đem theo một ít rác dơ, đôi khi cũng dậy sóng nguy hiểm, nhưng giòng sông đó luôn rộng lòng đem nước và phù sa đến cho những giống cây từ khắp nơi có cơ hội đơm trái ngọt...

         Người sống lâu ngày trong bình an...sung sướng...thường quên rằng họ đã may mắn...Người đàn ông đốt lá cờ Mỹ trước thềm nhà của Quốc Hội chắc chỉ nhớ đến những rác rưởi trong dòng sông, chắc ông ta không hiểu rằng, chỉ ở đất nước Hoa Kỳ ông ta mới dám chà đạp Quốc kỳ ngay trước toà nhà lập pháp mà không sợ rằng ông sẽ bị " ra đi " không có ngày trở về ". Ông ta chắc chắn không biết rằng lá cờ đó đã khiến hải tặc Thái Lan hoảng sợ .....không dám tiếp tục truy đuổi chúng tôi, đã quyết định giữa cuộc sống bình an ở Hoa Kỳ và cái chết....hoặc một cuộc sống nô lệ trên đất Thái còn đau khổ hơn cái chết...của hơn một trăm người trên một chiếc thuyền nhỏ vượt biên vào một ngày hè năm 1983.

          Thời gian trôi qua. Tôi đã lớn lên và đã hiểu ra rằng, tôi không hề phải chọn lựa giữa quê hương thứ nhất Việt Nam và quê hương thứ hai Hoa Kỳ. Tôi yêu mến đất nước Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã cưu mang tôi, cho cây tôi lớn lên... và trở thành một cây có trái ngọt.... đất nước này không hề phiền hà khi tôi đem chia sẻ trái ngọt đó với nơi tôi sinh ra....Tinh thần của nước Mỹ luôn khuyến khích mọi người góp sức làm thế giới tốt đẹp hơn....và tôi sẽ làm như thế....Tôi sẽ cố gắng bằng cách này hay cách khác trao lại những may mắm và cơ hội mà tôi đã được trao....Hy vọng là tôi sẽ góp phần...để một ngày nào đó..người dân Việt Nam không còn phải tìm cách ra đi ..cho dù phải trả giá bằng tính mạng hay nhân phẩm....

          Tôi yêu Việt Nam đã sinh thành ra tôi và tôi yêu Hoa Kỳ đã nuôi nấng tôi. Đôi khi tôi trầm ngâm phân tích tình cảm của mình : với Việt Nam là tình, với Hoa Kỳ là nghĩa.....Rồi tôi loay hoay tự hỏi, có phải như vậy không, hay ngược lại ? Cuối cùng, tôi bật cười..nghĩ mình thật lẩn thẩn...đã là tình cảm thì đâu cần phải phân loại và đặt tên.
( Macphongdinh.blogspot.com )

             
 
Copyright © 2013 Đời sống | Powered by Blogger